Nước Tống ra quân Chiến_tranh_Kim-Tống_(1206-1208)

Năm 1205, Ninh Tông cải nguyên là Khai Hi[2]. Có Võ học sinh Hoa Nhạc dâng thư xin chém đầu hai tên gây hấn Hàn Thác Trụ, Tô Sư Đán, liền bị đày ra phủ Kiến Ninh. Ở miền bắc, Kim Chương Tông cho triệu triều thần đến bàn về việc triều Tống điều động quân mã. Hoàn Nhan Khuông nói:

Khôi phục Trung Nghĩa bảo tiệp quân, gia tăng quân số, cải nguyên Khai Hi, tất là Tống có ý muốn lấy Trung Nguyên.

Vua Kim nghe theo, liền sai Bộc Tán Quỹ làm Hà Nam tuyên phủ sứ, đưa quân đến Biện Kinh phòng ngự triều Tống. Lúc này Hàn Thác Trụ đã được tiến phong Bình chương quân quốc trọng sự, ba ngày lên triều một lần. Triều đình lại dùng Khâu Sùng làm Giang Hoài tuyên phủ sứ, Trình Tùng làm Tứ Xuyên tuyên phủ sứ, Ngô Hi làm phó sứ, Tân Khí Tật làm Lưỡng Chiết An phủ sứ, Quách Nghê làm Trấn Giang đô thống, tri Dương châu, lấy Hoàng Phủ Bân làm tri phủ Tương Dương, thất lộ chiêu thảo phó sứ, Quách Nghê làm Tri phủ Dương châu kiêm Sơn Đông, Kinh Đông chiêu phủ sứ, Tô Sư Đán làm An Viễn quân tiết độ sứ, Cáp Môn sự, Tiết Thúc Tự là Kinh Hồ tuyên phủ sứ, Đặng Hữu Long Lưỡng Hoài tuyên phủ sứ....lệnh các nơi gia tăng quân số. Lúc Bộc Tán Quỹ đưa quân tới Biện đã sai sứ trách cứ triều Tống về việc phản bội minh ước Long Hưng trước kia, Tống triều trả lời rằng tăng quân để đề phòng giặc cướp, Bộc Tán Quỹ mới thượng tấu xin tạm bãi Hà Nam tuyên phủ ti[2], sau đó đổi Ngô Hi làm Thiểm Tây, Hà Đông tuyên phủ sứ, Hoàng Phủ Bân làm phó.

Nghe tin triều Tống động binh, vua Kim hỏi ý quần thần, Hoàn Nhan KhuôngNgột Thạch Liệt Tử Nhân nói triều Tống bội ước, không thể tin tưởng được, Kim vẫn giữ quân ở Biện nhưng lại án binh bất động. Quân Tống bắt đầu tấn công vào Hà Bắc, giành thắng lợi một số trận. Vào đầu năm 1206, Trần Cảnh Tuấn đi sứ nước Kim chúc mừng Chánh đán. Kim Chương Tông vốn không có ý dùng binh nên bảo Cảnh Tuấn:

Đầu những năm Đại Định, Thế Tông cho Tống làm nước cháu, trẫm tới nay vẫn luôn ghi nhớ. Hiện nay nước ngươi nhiều lần xâm phạm biên cảnh, trẫm mới phái đại thần tuyên phủ Hà Nam thì Tống nói là công đánh bọn Di địch, trẫm liền bãi tuyên phủ ti. Quần thần nhiều lần dâng thư xin đề phòng, trẫm nghĩ tình hòa hảo lâu năm, cho rằng Đại Tống hoàng đế là cháu có việc chưa rõ nên tạm thời chưa hỏi đến. Khanh về nước, nói lại những lời này.

Cảnh Tuấn về báo với Trần Tự Cường. Tự Cường giấu việc không nói, và tiếp tục tuyển binh. Lúc sứ Kim là Triệu Chi Kiệt đến Tống, Hàn Thác Trụ lệnh Lễ tán quan thách đấu bằng cách xúc phạm vua Kim, Chi Kiệt tức giận vào triều hỏi nguyên do. Chu Chất nói sứ Kim vô lễ phải chém, Ninh Tông không nghe và cho Chi Kiệt trở về. Chi Kiệt giận dữ bỏ về nước. Tiền Tượng Tổ dâng sớ nói lúc này chưa nên dùng binh với Kim, Thác Trụ không nghe và bãi chức Tượng Tổ[2], sau đó dùng Ngô Hi làm Thiểm Tây, Hà Đông chiêu phủ sứ, Quách Nghê làm Sơn Đông, Kinh, Lạc chiêu phủ sứ, Triệu Thuần kiêm chức Kinh Tây Bắc lộ chiêu phủ sứ. Quân Tống khởi đầu thuận lợi, tháng 4 năm 1206, Trần Hiếu Khánh thu phục Tứ châu, Hồng huyện, phá tan quân Kim ở Linh Bích; Hứa Tiến lấy lại huyện Tân Tức, Tôn Thành khôi phục huyện Bao Tín[4]. Hàn Thác Trụ vui mừng, thúc giục chư tướng tiến binh, sai Trực học sĩ Lý Bích thảo chiếu phạt Kim vào tháng 5 ÂL năm 1206. Chiếu viết

Đạo trời vốn sẵn đẹp, Trung Quốc tất phải giữ cái lý của mình, lại được lòng người quy thuận, quyết báo cựu thù. Bọn Rợ ngu xuẩn kia dựa vào minh ước mà sinh sát trăm họ, tham lam vơ vét. Điều đó ta không muốn nhưng chúng cho là đúng. Chúng đã đưa quân cướp sách, đốt sạch khác nào bầy dã thú. Nay kẻ có tội phải bị trừng phạt; ta sẽ ra quân với thế lực hùng mạnh để giành lại quyền lợi cho trăm họ. Xa gần được tin thảy đều xúc động. Quân dân phải nhớ đến nỗi nhục của tổ tông, gắng sức lập công, không được bỏ lỡ cơ hội này.

Vua Kim dùng Bộc Tán Quỹ làm Tả phó nguyên soái, Hoàn Nhan Khuông làm Hữu phó nguyên soái cùng các tướng trấn giữ các vùng hiểm yếu. Quách Nghê sai Quách Trác, Lý Nhữ Dực tiến đánh Túc châu nhưng bị người Kim đánh bật ra, phải lui về Kì châu[2]. Hoàng Phủ Bân công đánh Đường châu cũng bị tướng Kim Ô Khắc Tốn Ngạc Truân đánh bại. Lý Sảng công đánh Thọ châu, thứ sử Đồ Đan Hi kiên quyết tử thủ, quân Tống không thắng nổi, sau đó thì Đồ Đan Hi được quân cứu viện đã tổ chức phản công đánh tan quân Tống. Vương Đại Tiết đánh Thái châu, Thích Xuân đánh Bi châu đều bị tan tác. Lúc này Ngô Hi ở đất Thục lại mưu phản, sai người đến nước Kim đầu hàng, cầu phong, tình nguyện dâng bốn châu ở Thiểm Tây là Giới, Thành, Hòa, Phượng. Vua Kim lúc này ý quyết xuất binh. Về phần Hàn Thác Trụ thấy quân Tống liên tục thua trận thì lo lắng, đến tháng 6 ÂL bèn bãi chức Đặng Hữu Long, lấy Khâu Sùng làm Lưỡng Hoài tuyên phủ sứ, đóng ở Dương châu[2]. Thác Trụ lại hối hận vì đã dùng binh, cứ oán hận Tô Sư Đán đề nghị bậy bạ nên theo lời Lý Bích mà bãi chức Sư Đán, tịch thu gia sản, an trí ở Thiều châu; lấy Trương Nham làm tri Xu mật viện sự, Lý Bích làm Tham tri chính sự. Tháng 8 ÂL năm đó, triều đình trị tội các tướng bại trận, trong đó Quách Trác bị chém đầu ở Kinh Khẩu, Lý Nhữ Dực, Vương Đại Tiết, Lý Sảng bị đày ra Lĩnh Nam.